“Kẹo Halloween độc hại” làm khổ người Mỹ

Vào ngày 9 tháng 11 năm 1970, Kevin Toston năm tuổi chết vì sốc vì hút thuốc. Theo cảnh sát trưởng Detroit lúc đó Robert A. Slottke, cậu bé đã ăn một thanh kẹo rắc heroin tại nhà của chú mình. Hàm lượng heroin trong viên nang nằm trong dạ dày của Kevin.

Kevin Toston. Năm 1974, Ronald Clark O’Bryan ở Texas đã đầu độc cậu con trai 8 tuổi Tymothy của mình bằng kẹo Halloween có chứa kali xyanua. Cậu bé chết trên đường đến bệnh viện. Cha của Ronald bị buộc tội giết người có chủ ý và bị kết án tử hình vào năm 1984.

Vụ giết con của Ronald được kích thích bởi bảo hiểm nhân thọ trị giá 60.000 USD. Để đánh lạc hướng cơ quan điều tra, anh ta cũng phân phát kẹo độc cho nhiều trẻ em khác trong khu vực. May mắn thay, không ai là nạn nhân của hành vi này.

Ronald Clark O’Bryan đã đầu độc con trai mình bằng kẹo Halloween. Ảnh: Hình ảnh lịch sử. Câu chuyện về “Kẹo Halloween độc hại” nhanh chóng thu hút sự chú ý của các gia đình Mỹ trong những năm 1970 và 1980, và tiếp tục cho đến ngày nay. Vào những năm 1980, nhiều gia đình đã đề xuất cấm hoàn toàn truyền thống của trẻ em yêu cầu đồ ngọt.

Năm 1982, Thống đốc bang New Jersey đã ký một đạo luật quy định rằng một người bị đầu độc bằng kẹo, và dù có gây ra cái chết hay không thì vẫn bị kết án tù. Động thái này được thực hiện sau khi sáu người chết sau khi uống aspirin ngâm thuốc tím. Các nhà điều tra không thể truy tìm nguồn gốc của chất độc, nhưng tin rằng nó có trong kẹo Halloween. Hơn 40 thành phố ở Hoa Kỳ đã hủy bỏ truyền thống yêu cầu đồ ngọt.

Kẹo Halloween chứa kim khâu. Ảnh: People. Năm 2017, nhiều sở cảnh sát ở Hoa Kỳ cảnh báo các bậc cha mẹ nên kiểm tra kẹo Halloween của con cái họ. Khuyến nghị được đưa ra sau khi một phụ nữ ở Washington báo cáo rằng một chiếc dao cạo với gọt bút chì được gắn vào thanh Twix của con trai bà.

Đồng thời, Sở Cảnh sát Arcadia ở Wisconsin cũng đã tiến hành một cuộc điều tra. Một sự cố liên quan đến thanh kẹo Kit Kat có chứa kim khâu. Hoa Kỳ, vào cuối tháng 10 hàng năm.

Thục Linh (theo báo cáo CNN của New York Times)

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *