Nữ nhà khoa học đã giành giải thưởng Nobel về y sinh

Gerty Theresa Cori (1896-1957) và chồng Carl Cori bắt đầu nghiên cứu chuyển hóa carbohydrate khi họ đang học tại Đại học Prague. Khi Getty còn nhỏ, cha cô mắc bệnh tiểu đường và ông hy vọng rằng con gái mình sẽ tìm ra cách chữa trị căn bệnh này. Getty đã không làm bố thất vọng. Sau 30 năm nghiên cứu, cô và chồng đã chia sẻ giải thưởng Nobel về y học uy tín năm 1947 vì đã khám phá ra sự chuyển đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác. Hình ảnh của cô cũng được vinh dự xuất hiện trên tem của Mỹ.

Gerty Theresa Cori (1896-1957) và chồng cô, Carl Cori, đã nghiên cứu về chuyển hóa carbohydrate kể từ khi họ còn là sinh viên y khoa tại Đại học Prague. Khi Getty còn nhỏ, cha cô mắc bệnh tiểu đường và ông hy vọng rằng con gái mình sẽ tìm ra cách chữa trị căn bệnh này. Getty đã không làm bố thất vọng. Sau 30 năm nghiên cứu, cô và chồng đã chia sẻ giải thưởng Nobel về y học uy tín năm 1947 vì đã khám phá ra sự chuyển đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác. Hình ảnh của cô cũng được vinh dự xuất hiện trên tem của Mỹ. -Rosalyn Sussman Yalow (1921-2011) do sự phát triển công nghệ của RIA và Roger Guillemin (Roger Guillemin) và Andrew V. Sally (Andrew V. Sally) cùng mua lại Giành giải thưởng Nobel về y học năm 1977. Đây là một kỹ thuật được sử dụng để đo lượng rất nhỏ các chất khác nhau trong chất lỏng (đặc biệt là lượng insulin trong máu). RIA được sử dụng để theo dõi hàng trăm hormone, enzyme, vitamin và đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ điều trị thuốc máu, sàng lọc ung thư và nhiều bệnh khác.

Rosalyn Sussman Yalow (1921-2011) đã chia sẻ giải thưởng Nobel về y học của Roger Guillemin và Andrew V. Sally vào năm 1977 cho sự phát triển của công nghệ RIA, Công nghệ này có thể đo một lượng rất nhỏ các chất khác nhau trong chất lỏng, đặc biệt là hàm lượng insulin trong máu. . AIR được sử dụng để theo dõi hàng trăm hormone, enzyme, vitamin và đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ chế biến thuốc trong máu, ung thư và nhiều bệnh khác. — Barbara McClintock (1902-1992) là một trong số đó. Ông là một trong những nhà khoa học giỏi nhất trên thế giới trong lĩnh vực tế bào học và là người tiên phong trong việc phân tích nhiễm sắc thể ngô, chứng minh sự thay đổi nhiễm sắc thể của ngô trong quá trình sinh sản. Cô cũng là người đầu tiên tạo ra một bản đồ di truyền của ngô có liên quan đến nhiễm sắc thể với các đặc điểm vật lý. Người đầu tiên chứng minh vai trò quan trọng của telomere và centromeres trong việc bảo vệ thông tin di truyền.

Barbara McClintock (Barbara McClintock) đã giành giải thưởng Nobel về sinh học năm 1983 nhờ nghiên cứu về các yếu tố di truyền và quy tắc di truyền. mũi tiêm. Trong số 12 phụ nữ đã giành giải thưởng Nobel về khoa học y sinh, Barbara là người phụ nữ duy nhất nhận được giải thưởng độc lập cho nghiên cứu này. Barbara McClintock (Barbara McClintock, 1902-1992) là một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất. Nhà lãnh đạo thế giới về tế bào học, một công nghệ tiên phong để phân tích nhiễm sắc thể ngô, có thể chứng minh sự thay đổi nhiễm sắc thể trong quá trình sinh sản ngô. Cô cũng là người đầu tiên tạo ra một bản đồ di truyền của ngô có liên quan đến nhiễm sắc thể với các đặc điểm vật lý. Người đầu tiên chứng minh vai trò quan trọng của telomere và centromeres trong việc bảo vệ thông tin di truyền.

Barbara McClintock (Barbara McClintock) đã giành giải thưởng Nobel về sinh học năm 1983 nhờ nghiên cứu về các yếu tố di truyền và quy tắc di truyền. mũi tiêm. Trong số 12 phụ nữ đã giành giải thưởng Nobel về khoa học y sinh, Barbara là người phụ nữ duy nhất nhận được giải thưởng độc lập cho nghiên cứu này.

Rita Levi-Montalcini (Rita Levi-Montalcini, 1909-2012) được đặt biệt danh là “Bà nội của tế bào.” “Trong các chế độ phát xít ở Ý và Đức, bất chấp những rủi ro bí mật của nghiên cứu ngầm ở Bỉ và Ý, chính phủ đã thực hiện chủ nghĩa bài Do Thái vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Stanley Cohen đã giành giải thưởng Nobel về y sinh năm 1986, mở ra một viễn cảnh mới cho các nhà khoa học về nhiều khía cạnh của tế bào (đặc biệt là sự phát triển của tế bào).

Bà đã 77 tuổi Giành giải thưởng Nobel về y học, người đầu tiên giành giải thưởng trăm năm. Vào tháng 12 năm 2012, bà qua đời ở tuổi 103.

Rita Levi Montacini (1ita-2012) có biệt danh “Bà tế bào.” Cô đã xuất bản các tác phẩm bài Do Thái ở Ý và Đức. Cô bỏ qua những rủi ro bí mật khi tiến hành nghiên cứu ngầm ở Bỉ và Ý vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Việc phát hiện ra các yếu tố thần kinh đã giúp cô và sinh học của mình Nhà khoa họcNgười Mỹ Stanley Cohen đã giành giải thưởng Nobel về khoa học y sinh năm 1986, mở ra những quan điểm mới cho các nhà khoa học trong nhiều khía cạnh của tế bào, đặc biệt là sự phát triển của tế bào ung thư.

Cô đã được trao giải thưởng Nobel về y sinh năm 20 tuổi. Ở tuổi 77, ông là người đầu tiên giành được giải thưởng 100 năm sống sót. Bà mất vào tháng 12 năm 2012 ở tuổi 103.

Gertrude B. Elion (1918-1999) đã quyết định nghiên cứu y học ung thư sau khi ông nội qua đời vì bệnh ung thư năm 15 tuổi. Trong vài năm qua, cô đã phát triển một loạt các loại thuốc, bao gồm cả các loại thuốc điều trị ung thư máu, bệnh gút và sốt rét cũng như thuốc chống thải ghép cho bệnh nhân ghép tạng. . Sau đó, thuốc AZT của ông đã được sử dụng rộng rãi trong ghép tạng và điều trị AIDS. Giải thưởng Nobel về y học năm 1988 và hai nhà khoa học nam của cô, Hitches và James W. Black, thuộc về cô.

Gertrude B. Elion (Gertrude B. Elion, 1918-1999) quyết định nghiên cứu y học ung thư ở tuổi 15 sau khi ông nội qua đời vì bệnh ung thư dạ dày.

Với nhiều năm quyết tâm và làm việc chăm chỉ, cô đã phát triển một loạt các loại thuốc, bao gồm cả các loại thuốc điều trị ung thư máu, bệnh gút và sốt rét. , Là một loại thuốc từ chối cấy ghép cho bệnh nhân ghép tạng. Sau đó, thuốc AZT của ông đã được sử dụng rộng rãi trong ghép tạng và điều trị AIDS. Giải thưởng Nobel về sinh học năm 1988 đã được ông và hai nhà khoa học, Xiqi và James W. Black cùng giành được. Nghiên cứu về kiểm soát di truyền trong quá trình hình thành phôi – Christiane Nüsslein-Volhard (1918-2004) đã giành giải thưởng Nobel về sinh học năm 1995 cho nghiên cứu về kiểm soát. Di truyền trong quá trình tạo phôi.

Linda B. Buck (sinh năm 1947) là một nhà sinh vật học người Mỹ. Cô đã giành giải thưởng Nobel về y học năm 2004 với Richard Axel vì nghiên cứu về thụ thể khứu giác và gen kiểm soát khứu giác ở động vật có vú. Linda B. Buck (Linda B. Buck, sinh năm 1947) là một nhà sinh vật học người Mỹ. Cô đã giành giải thưởng Nobel về y học năm 2004 với Richard Axel vì nghiên cứu về thụ thể khứu giác và gen kiểm soát khứu giác ở động vật có vú.

Françoir Barré-Sinoussi (Brançoir Barré-Sinoussi, sinh năm 1947), Tiến sĩ tại Psteur de Pasteur de Paris (Psteur de Pasteur de Paris), và bắt đầu nghiên cứu retrovirus vào năm 1975. Tám năm sau, Françoir đã phát hiện ra virus HIV. Năm 1988, cô thành lập phòng thí nghiệm nghiên cứu của riêng mình trong trường đại học, và tất cả thời gian của cô dành cho việc nghiên cứu và nghiên cứu virus. Ngoài việc phát hiện ra virus HIV, nghiên cứu của Barré-Sinouss còn cho thấy cách lây truyền HIV và mối liên hệ của nó với AIDS. Cô đã giành giải thưởng Nobel về y học năm 2008 từ Luc Montagnier và Harald zur Hausen vì đã phát hiện ra loại virus này trong nguồn gốc của “Căn bệnh thế kỷ”. -Francoir đã xuất bản hơn 200 ấn phẩm khoa học về các cơ chế cụ thể của hệ thống. . Hệ thống miễn dịch của con người và virus HIV.

Françoir Barré-Sinoussi (sinh năm 1947) lấy bằng tiến sĩ tại Viện Pasteur ở Paris và bắt đầu nghiên cứu về retrovirus vào năm 1975. Tám năm sau, Françoir được phát hiện vào năm 1988 rằng ông có phòng thí nghiệm nghiên cứu của riêng mình trong trường đại học và dành toàn bộ thời gian để nghiên cứu virus. Ngoài việc phát hiện ra virus HIV, nghiên cứu của Barré-Sinouss còn cho thấy cô được Luc Montagnier và Harald zur Hausen trao giải thưởng Nobel về y học năm 2008 vì phát hiện ra rằng virus là nguồn gốc của “căn bệnh thế kỷ”. Hơn 200 ấn phẩm khoa học về hệ thống miễn dịch của con người và các cơ chế cụ thể của HIV.

Elizabeth Blackburn (sinh năm 1948) và Carol Grader (sinh năm 1961) và Jack Szostak (Jack Szostak) đã cùng nhau giành giải thưởng Nobel năm 2009 về y sinh. Cơ chế bảo vệ nhiễm sắc thể đã mở ra hướng đi mới trong điều trị ung thư và chống lão hóa.

Elizabeth Blackburn (sinh năm 1948) và Carol W. Grad (sinh năm 1961) và Jack Szostak đã giành giải thưởng Nobel năm 2009 về y sinh May-Britt Moser (sinh năm 1963) đã giành giải thưởng Nobel về y học với các nhà khoa học John O’Keefe và Edvard I. Moser năm 2014, công nhận hướng đi mới của họ trong cơ chế bảo vệ nhiễm sắc thể, điều trị ung thư và chống ung thư. Các tế bào tạo nên hệ thống, May-Britt Moser (sinh năm 1963), cùng với các nhà khoa học John O’Keefe và Edvard I. Moser, đã giành giải thưởng Nobel Y học 2014. Nằm trong não.

Tu Youyou (sinh năm 1930) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực y học và hóa học tại Hoa KỳTrung Quốc. Kế thừa giá trị có thể sử dụng của hoa màu vàng, cây được coi là kho báu của y học cổ truyền Trung Quốc cách đây 1700 năm. Nó chuyên nghiên cứu sâu hơn và chiết xuất thành công nguyên tố amoni. Các trường hợp mắc bệnh sốt rét. Thông qua công việc này, cô đã giành được giải thưởng Nobel về Y học 2015 cùng với các nhà khoa học Satoshi Omura và William Campbel. Các nước đang phát triển ở Nam Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Tu Youyou (sinh năm 1930) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng về y học và hóa học ở Trung Quốc. Kế thừa giá trị có thể sử dụng của hoa màu vàng, cây được coi là kho báu của y học cổ truyền Trung Quốc cách đây 1700 năm. Nó chuyên nghiên cứu sâu hơn và chiết xuất thành công nguyên tố amoni. Các trường hợp mắc bệnh sốt rét. Thông qua công việc này, cô đã giành được giải thưởng Nobel về Y học 2015 cùng với các nhà khoa học Satoshi Omura và William Campbel. Ở các nước đang phát triển ở Nam Á, Châu Phi và Nam Mỹ.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *