Một khi nguy hiểm bao quanh bàn mổ

Thời đại Victoria ở Anh là triều đại của Nữ hoàng Victoria vào thế kỷ 19 (từ 1837 đến 1901). Điều này cũng đánh dấu thời kỳ của cuộc cách mạng phẫu thuật, giữa những năm 1840 và 1890.

Các hoạt động được thực hiện trong thế kỷ 19 là vô cùng đau đớn và tỷ lệ tử vong cao. Ngay cả những người khỏe mạnh cũng khó sống sót sau phẫu thuật. Tuy nhiên, đây là điều kiện tiên quyết để phát triển các loại thuốc theo dõi.

Sử dụng chloroform làm thuốc gây mê

Cloroform đã được sử dụng làm thuốc gây mê trong phẫu thuật. Nhiếp ảnh: Wikimedia Commons

Phẫu thuật không gây mê, mặc dù đau đớn, nhưng vô cùng phổ biến trong thế kỷ 19. Năm 1847, chloroform được giới thiệu ở Anh và được sử dụng làm thuốc gây mê. Nó là một hóa chất độc hại có thể gây ung thư, và sau đó được sử dụng làm dung môi cho một số loại mực, vecni và sơn công nghiệp. Bác sĩ phụ khoa người Scotland James Simpson là người đầu tiên sử dụng chloroform trong khi sinh. Anh ta ngâm mặt nạ vào dung dịch chất này, đặt nó lên mặt bệnh nhân và sử dụng sau vài phút. Tiến sĩ Simpson đã nghĩ ra ý tưởng này sau khi thử dùng chloroform cho chính mình, và ngã gục trong phòng ăn. Nữ hoàng Victoria cũng sử dụng phương pháp này khi sinh đứa con cuối cùng. Tuy nhiên, do độc tính của nó đối với con người, chloroform đã bị cấm trong thế kỷ 20 – cầm máu – sử dụng sắt nung để cầm máu. Ảnh: “Tạp chí khai thác.” Trong phẫu thuật thế kỷ 19, các bác sĩ thường sử dụng thanh sắt nung nóng để ngăn bệnh nhân chảy máu. Phương pháp này đã được báo cáo trong Tạp chí của Hiệp hội Khoa học và Triết học Hoàng gia. Bác sĩ đã ngăn máu của người phụ nữ chảy máu bằng cách nhúng vết thương vào rượu và sau đó đặt một que hàn lên đó. Nhiệt được tạo ra bởi thanh sắt đốt cháy động mạch và cầm máu.

Nhiễm trùng hậu phẫu-Hầu hết các trường hợp tử vong sau phẫu thuật trong thế kỷ XIX là do nhiễm trùng. Tiến sĩ Lindsey Fitzharris, nhà sử học y khoa tại Đại học Oxford, nói rằng các bác sĩ vào thời điểm đó không được sử dụng để rửa tay hoặc dụng cụ phẫu thuật và gây ra nhiễm trùng sau một vài tháng. Đây được coi là một hình thức “thực hiện chậm” cho bệnh nhân.

Bác sĩ cũng lầm tưởng rằng mủ của vết thương là dấu hiệu của sự chữa lành. Sau khi bác sĩ Joseph Lister giới thiệu phương pháp khử trùng và môi trường vô trùng, tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm. Ông được coi là cha đẻ của triệt sản phẫu thuật.

Đám đông xung quanh bàn mổ

Có nhiều hình ảnh về ca phẫu thuật: News Dog Media

Vào thế kỷ 19, gia đình bệnh nhân hoặc chuyên gia được phép tụ tập trong đám đông xung quanh bàn mổ, Giống như một bác sĩ thực hiện một ca phẫu thuật. Điều này là hoàn toàn bình thường vào những năm 1800, khi học thuyết về vi khuẩn không phổ biến.

Thợ cắt tóc là bác sĩ phẫu thuật – trong chiến tranh, nhiều thợ cắt tóc đã gia nhập quân đội và trở thành bác sĩ phẫu thuật của những người lính bị thương. Họ không có nhiều kiến ​​thức. Những thợ cắt tóc này chịu trách nhiệm nhổ răng, lấy máu và các thủ tục cơ học. .

Khi trận chiến kết thúc, nhiều bệnh nhân vẫn quen đến tiệm làm tóc vì họ có những dụng cụ sắc bén cần để phẫu thuật.

– Máu trước khi phẫu thuật — Vào những năm 1800, các bác sĩ phẫu thuật đã sử dụng ches nước sống để hút máu bệnh nhân. Điều này thực sự cực kỳ nguy hiểm, gây thiếu máu và có thể gây tử vong. Tuy nhiên, các bác sĩ đã sử dụng phương pháp này trong một thời gian dài, ý tưởng là ches nước sẽ hấp thụ máu độc hại từ cơ thể bệnh nhân, điều này rất thiết thực cho các thủ tục phẫu thuật.

Thục Linh (Theo danh sách đảo ngược)

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *