Nghệ tây. Nhiếp ảnh: caytrongvithuoc.
Tiến sĩ Võ Văn Chí, tác giả của “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, cho biết khu vực xoang còn được gọi là độc lực, gai xanh, gai gai, tên chăn, cam hoặc mọng nước. Tên khoa học là Severinia monophylla Tanaka, thuộc họ cây cam thuộc họ Rễ.
Đó là một cây thất bại, phân nhánh mạnh, cao 1-2 m, nhẵn, gai thẳng tới 4 cm, nằm ở nách lá. Toàn bộ lá rất cứng, hình elip, dài 1,5 đến 5 cm, tròn hoặc lõm ở chóp, thon hoặc tròn ở gốc, nhẵn, dày, cứng, tuyến, hai bên kín, gân kín gần mép, Cạnh dưới hướng xuống, cuống ngắn 3-4 mm. Những bông hoa màu trắng, gần như không có, được sắp xếp thành các nhóm nhỏ ở nách lá. Quả mỏng, màu đen, hình cầu, đường kính 10 đến 12 mm, có 2 hạt.
Mọc dọc bờ biển, đất cát. Nó nở hoa từ tháng Sáu đến tháng Tám, và nở hoa và sinh hoa từ tháng Chín đến tháng Mười Hai. Phạm vi của sóng hình sin được phân bố rộng rãi tại Hà Nội, Ninh Bình và các khu vực ven biển miền trung. Một số quốc gia có nhà máy này, chẳng hạn như Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia và Philippines.
Đông y sử dụng rễ và lá làm dược liệu. Nó có thể được thu hoạch quanh năm. Rửa và cắt lát rễ và sử dụng sau khi khô. Lá thường tươi. Thuốc này có vị cay, mùi thơm, đặc tính thanh nhiệt và tác dụng chống viêm. Nó chỉ có một khái niệm hóa học, chỉ có gas. Nó được sử dụng để điều trị cảm lạnh, viêm phế quản, sốt rét, đau dạ dày, đau bụng, viêm xương khớp do thấp khớp và ho do đau lưng. Lượng rễ là 30-40 g, và lượng lá là 12-15 g. Màu của nước uống.
Phân tích dược lý cho thấy toàn bộ cây có chứa tinh dầu và quả xanh chứa chất nhầy. Vỏ rễ chứa Seerifolin, N-methyl-Severifolin, atalaphylin, N-methyl-alaquinoline, 5-hydroxy-N-methyl-severifolin. Sinusoid có tác dụng chống co thắt, và nước mạnh của nó có thể ức chế sự co thắt do histamine và acetylcholine gây ra. Ngoài ra, nó cũng giúp ngăn ngừa phản ứng dị ứng và giảm ho.
Bác sĩ Võ Văn Chi đã đề xuất các liệu pháp bạch quả sau đây: g chỉ 20 g, và giới hạn trên của con người là 20 g. Tất cả những thứ này có thể mang lại màu sắc, uống rượu nóng và đổ mồ hôi bằng chân.
– Chữa bệnh thấp khớp, chi dưới đầu gối, đau nhức: đau họng, không khí, bưởi, sức mạnh hoàng gia, rễ, dây sắt, bộ phận cần cẩu, kim, cạo, mỗi loại 15 gram. Uống túi. Hoặc sử dụng 16g rễ xoang, 12g Dadiling, 12g gia súc d, 8g thiên niên kỷ. Tất cả rượu uống được cắt nhỏ và ngâm. Nó có thể được nấu ở nhiệt độ cao và trộn với rượu.
– Mụn sưng: Những cọng lông được nghiền với giấm để che đi mụn trứng cá. Nếu bạn có mụn nước hoặc vết loét, hãy đun sôi chúng trong một nồi nước. Sau đó làm sạch lá lục bình và que táo bằng nước muối, nghiền nát chúng và áp dụng chúng.
– Viêm phế quản, ho: rễ xoang, rễ quả hồ trăn 30 g, cam (crape myrussy) 15 g, nút chai 15 g. Uống nước có nhiều màu sắc khác nhau .
– Đau dạ dày: 30 gram rễ xoang, 6 gram tiếng phổ thông, 10 gram rễ gấu và 10 gram màng lụa. Nước uống có nhiều màu sắc khác nhau .
– Sốt rét: 30 đến 60 gram rễ, rất phù hợp với nước. Uống rượu 4 giờ trước khi sốt. Uống một đợt khác cứ sau 3 đến 5 ngày.
Trần Ngôan