Việt Nam cho phép nhuộm ICG lần đầu tiên để điều trị ung thư

Bệnh nhân ung thư đại trực tràng được điều trị tại một nhà thuốc đại học ở thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: TP .

Bác sĩ Nguyễn Hữu Thịnh, Giám đốc Sở Khoa học và Đào tạo tại Đại học Y khoa Hồ Chí Minh giải thích rằng ICG (Indocyanine Green) là một loại chẩn đoán y khoa. Nó cải thiện khả năng xác định chính xác các hạch bạch huyết di căn để nạo vét hoàn toàn, do đó làm tăng hiệu quả điều trị ung thư và giảm tỷ lệ tái phát.

Khi chất này được tiêm vào cơ thể bệnh nhân, ICG sẽ mô phỏng đường đi của tế bào ung thư và hiển thị hình ảnh trên một thiết bị quan sát đặc biệt. Khi được theo dõi bằng máy, bác sĩ phẫu thuật có thể xác định các khu vực ung thư xâm lấn và lên kế hoạch tiêu diệt hoàn toàn các tế bào ác tính.

Tiến sĩ Thịnh nói rằng ICG đã được áp dụng. Nó được sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư đại trực tràng, ung thư vú và ung thư da trên toàn thế giới. Gần đây, Bộ Y tế Việt Nam đã phê duyệt sử dụng trong nước. Đến nay, Đại học Y thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên và duy nhất được phép sử dụng ICG trong phẫu thuật ung thư đại trực tràng tại Việt Nam. Các chuyên gia hy vọng rằng ứng dụng có hệ thống của công nghệ này có thể cải thiện khả năng xác định chính xác các hạch bạch huyết di căn và chẩn đoán các giai đoạn bệnh, loại bỏ hoàn toàn các hạch bạch huyết và mang lại hiệu quả điều trị. Trị liệu nhiều hơn. Chi phí phẫu thuật đã tăng lên không đáng kể.

Theo thống kê, ung thư đại trực tràng là một khối u ác tính đường tiêu hóa phổ biến trong cộng đồng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bệnh là nguyên nhân hàng đầu thứ ba gây tử vong trong số tất cả các bệnh ung thư. Mỗi người có nguy cơ mắc bệnh trọn đời ước tính là khoảng 1 trên 20, điều đó có nghĩa là cứ 20 người thì có 1 người mắc bệnh. Thu nhập hàng năm là 2,8% là do hiệu quả của chương trình sàng lọc ung thư đại trực tràng. Phát hiện sớm là rất quan trọng để xác định hiệu quả của điều trị và chữa bệnh. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng đang gia tăng. Hiện tại, tại Việt Nam, so với 10 năm trước, số ca mắc ung thư đại trực tràng đã tăng đáng kể và dự kiến ​​số ca mắc ung thư đại trực tràng sẽ tăng mạnh vào năm 2020.

Ung thư đại trực tràng sớm hầu như không có triệu chứng và thường được phát hiện bằng các thủ tục sàng lọc ung thư. Ở giai đoạn sau, bệnh nhân thường đi đại tiện ra máu, thay đổi thói quen đi đại tiện (xen kẽ táo bón phân lỏng), thay đổi hình dạng phân, cát, đau bụng và thiếu máu … triệu chứng. Điều này cũng có thể dễ dàng nhầm lẫn trong các bệnh lý khác. Trung bình, khoảng 20% ​​đến 25% bệnh nhân ung thư đại trực tràng được chẩn đoán rất muộn trong sự phát triển và lan rộng của các tế bào ung thư. Bệnh nhân có thể bị các biến chứng như tắc ruột, chảy máu đường tiêu hóa và thủng. Hàng năm, Đại học Y thành phố Hồ Chí Minh điều trị khoảng 500 đến 700 trường hợp ung thư đại trực tràng. Hầu hết trong số chúng được phát hiện trong giai đoạn sau của giai đoạn 3 đến 4, và chỉ một số ít ở giai đoạn đầu. Sau khi điều trị, tỷ lệ chữa khỏi ung thư sớm là trên 95%, tỷ lệ chữa khỏi ung thư có triệu chứng là khoảng 50% và tỷ lệ chữa khỏi ung thư di căn là dưới 5%.

Trần Ngôan

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *