5 huyền thoại về ung thư cổ tử cung

Đây là chia sẻ của bác sĩ Lê Văn Hiền, Tổng thư ký Hiệp hội sản phụ khoa thành phố Hồ Chí Minh (HOGA) về huyền thoại về sự sống sót của phụ nữ “nguy cơ phát hiện sớm ung thư cổ tử cung – những lựa chọn nhỏ, những thay đổi lớn”.

Nếu không có ai trong gia đình, họ sẽ không mắc bệnh

“Không ai trong gia đình tôi, tại sao tôi mắc bệnh này” là một trong những vấn đề của bác sĩ Lê Văn đang truyền đạt chẩn đoán cho Bệnh nhân thường nhận được nó sau này. Ông nói rằng trên thực tế chỉ có 1/4 bệnh ung thư là do di truyền và ung thư cổ tử cung không phải là một trong số đó.

Bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết – Giám đốc Viện bệnh Hồng Vương để biết thêm thông tin, nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung là nhiễm trùng HPV dai dẳng. Trong số đó, HPV 16 và 18 chiếm 70% ung thư cổ tử cung.

Lý do chính cho 99% các trường hợp là nhiễm trùng HPV dai dẳng. Cụ thể, HPV 16 và 18 chịu trách nhiệm cho 70% ung thư cổ tử cung.

Thực tế đơn giản là nhiễm trùng HPV sẽ gây ung thư cổ tử cung

Bác sĩ Lê Văn Hiền nói rằng nhiễm trùng HPV không có nghĩa là bạn bị ung thư cổ tử cung vì có 100 Nhiều chủng virut HPV khác nhau, trong đó khoảng 90% cơ thể người có thể bị nhiễm bệnh, vì vậy chỉ có 10% vi rút tồn tại và gây ung thư tử cung. . Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ cao phụ nữ bị nhiễm vi-rút. Tuy nhiên, ở những người kháng thuốc và khỏe mạnh, HPV thậm chí có thể biến mất sau một năm mà không gây ra các bệnh phụ nữ.

Ung thư cổ tử cung là bản án tử hình của “sự phán xét”. Trong giai đoạn tiền ung thư, các tế bào bất thường xuất hiện trên bề mặt cổ tử cung. Chúng không ăn sâu hoặc lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Các bác sĩ đã thực hiện nhiều phương pháp điều trị tại chỗ. Các phương pháp điều trị này luôn có thể duy trì chức năng sinh sản của nữ giới, chẳng hạn như đốt laser. Ở giai đoạn đầu tiên, khi các tế bào ung thư không xâm lấn mà luôn nằm trong cổ tử cung, tỷ lệ sống sau 5 năm của chúng là 80% đến 90%, chỉ bị bỏ qua khi bệnh được phát hiện muộn Giai đoạn vàng của điều trị là phụ nữ sẽ đối mặt với nguy cơ tử vong cao.

Nếu ung thư cổ tử cung được phát hiện sớm, 9/10 phụ nữ sẽ sống lâu hơn 5 năm. Vắc-xin phòng ngừa HPV 100% có thể phòng ngừa được bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm trùng có nguy cơ cao, bao gồm cả HPV 16, 18 hoặc HPV 6, 11, 16 và 18. Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng vắc-xin có thể làm giảm 90% ung thư cổ tử cung và ung thư bộ phận sinh dục liên quan đến nhiễm vi-rút HPV, chẳng hạn như dương vật, âm hộ, âm đạo … Do đó, chúng ta có thể thấy rằng tiêm vắc-xin là công việc cần thiết và hiệu quả, nhưng nó không phải là “phổ quát Phương pháp.

Phụ nữ cần làm thêm các xét nghiệm và kiểm tra lọc để phát hiện sớm nguy cơ nhiễm vi-rút HPV. Hiện nay, có hai xét nghiệm thường được sử dụng để sàng lọc ung thư cổ tử cung: xét nghiệm Pap smear, xét nghiệm cổ tử cung (PAP) và xét nghiệm HPV. Cả hai xét nghiệm đều tìm kiếm nhiễm trùng tế bào cổ tử cung.

Bạn có thể sử dụng một hoặc hai nhóm xét nghiệm để sàng lọc ung thư cổ tử cung. Đối với xét nghiệm tế bào âm đạo và cổ tử cung, có nhiều loại khác nhau (thông thường, chất lỏng tích hợp). Có nhiều loại xét nghiệm HPV, nhưng xét nghiệm DNA DNA của FDA Hoa Kỳ có thể được sử dụng làm phương pháp xét nghiệm sàng lọc đầu tiên.

DNA DNA đã đạt được độ nhạy và độ chính xác của xét nghiệm sàng lọc. Ung thư cổ tử cung cao hơn 92% so với phết cổ tử cung.

Đàn ông, phụ nữ và trẻ em không có khả năng mắc bệnh này – theo các chuyên gia, độ tuổi của ung thư cổ tử cung là mãn kinh. Tuy nhiên, khuyến cáo rằng phụ nữ nên trải qua các xét nghiệm sàng lọc thường xuyên càng sớm càng tốt để họ có thể tránh được bệnh kịp thời.

Theo Phó giáo sư Vũ Thị Nhung, Chủ tịch Hiệp hội phụ khoa thành phố Hồ Chí Minh – Trong thành phố, tất cả phụ nữ từ 21 đến 65 tuổi vì hoạt động tình dục nên được kiểm tra ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm DNA DNA đã được Bộ Y tế giới thiệu như một hướng dẫn quốc gia về sàng lọc ung thư cổ tử cung ở phụ nữ từ 25 đến 65 tuổi.

Trên thực tế, căn bệnh này ngày càng trẻ hơn, ngày càng có nhiều phụ nữ bị nhiễm phụ nữ 30 tuổi. Do đó, kiểm tra phụ khoa thường xuyên, thực hiện các xét nghiệm sàng lọc và sàng lọc từ khi còn nhỏ có thể giúp bảo vệ cuộc sống và làm mẹ.

Lê Nguyễn

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *