Phẫu thuật tim khác quá khứ và hiện tại như thế nào

Trong điều trị bệnh tim có hai phương pháp chính là nội khoa (dùng thuốc) và ngoại khoa (mổ). Bệnh tim liên quan đến sai lệch cấu trúc và thường phải phẫu thuật sửa chữa. Đường rạch cổ điển trong phẫu thuật tim là cắt dọc xương ức để tiếp cận các cấu trúc bên trong, chẳng hạn như van tim, thành tim, để sửa chữa các khuyết tật hoặc bệnh tật ở đó. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp phẫu thuật này là mang lại nhiều đau đớn và mất nhiều máu cho bệnh nhân, phải nằm viện lâu và phục hồi bằng máy, do đó làm tăng thời gian nằm viện. Một biến chứng nguy hiểm hơn là nhiễm trùng xương ức rất nguy hiểm.

Phẫu thuật tim nội soi

Theo bác sĩ Trương Quang Bình, Giám đốc Trung tâm Tim mạch Bệnh viện ĐHYD kiêm Phó Giám đốc Trung tâm Y tế, sự phát triển của ngành gây mê hồi sức và hệ tuần hoàn ngoài cơ thể ở TP.HCM trong hai thập kỷ qua Đơn giản hóa phẫu thuật tim, do đó giảm xâm lấn mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Kết quả điều trị. Trên thế giới và tại Việt Nam, số lượng trung tâm sử dụng công nghệ này và tỷ lệ bệnh nhân tim được mổ nội soi ngày càng tăng.

Ở nước ta, từ năm 2014, một số khu vực phía Bắc đã thực hiện phẫu thuật tim nội soi như Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện E, Bệnh viện Việt Nam (Hà Nội). Phía nam có Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, trung tâm đã thực hiện phẫu thuật nội soi thường quy từ tháng 8 năm 2014 và đến nay đã thực hiện hơn 200 ca với kết quả tốt, tỷ lệ tử vong dưới 1. %, tỷ lệ biến chứng và tỷ lệ biến chứng dưới 5%. Một số bệnh viện có chuyên khoa tim mạch cũng sử dụng phương pháp này. Thực hiện phẫu thuật mở lồng ngực qua xương ức. Bao gồm các van tim phẫu thuật, chẳng hạn như van hai lá, van động mạch chủ; bệnh tim bẩm sinh như thông phòng, đặt ống thông tâm thất và động mạch; điều trị hẹp động mạch vành …

Ưu điểm của phẫu thuật nội soi là có thể giúp Bệnh nhân giảm đau, giảm chảy máu và truyền máu, giảm thời gian thở máy và hồi sức, đẹp da, rút ​​ngắn thời gian nằm viện, nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, công nghệ này không phù hợp với trẻ em nặng dưới 20 kg, người đã xạ trị lồng ngực, suy tim nặng, bệnh tim mạch phức tạp.

Trần Ngoan

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *