Lê. Ảnh: News. – – Tiến sĩ Võ Văn Chi, tác giả Từ điển Cây thuốc Việt Nam cho biết, tên khoa học của loại lê này (còn gọi là lê thứ năm) là Pyrus pyrifolia Nakai, thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Các hộp gỗ nhỏ có chiều cao từ 7 đến 15 m. Lá có phiến lá nhỏ, hình tam giác tròn, răng nhọn, mép nhỏ, đầu hình sợi, có 5-7 cặp gân bên, cuống dài hơn lá. Cuống, cuống dài 4 – 6 cm, nhẵn, 5 răng, cánh hoa cao 1 cm, nhị hoa. Quả hình mác khoảng 4×3 cm, có vỏ tròn. Hạt cứng, phẳng và hình trứng, dài khoảng 8 mm.
Cây lê ưa khí hậu mát mẻ trên vùng đất cao 1000 m trở lên. Nó nở hoa vào tháng 4 và chín vào mùa thu. Loại cây này được trồng nhiều ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Nó cũng được phân bố rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nước ôn đới.
Đông y dùng lê làm dược liệu, hái vào mùa thu, quả chín, rửa sạch, ăn sống hoặc ép lấy nước. Quả có vị ngọt, hơi chua, tính rất mát, tác dụng nhuận phế chỉ khái, sinh tân dịch lợi. Nó được sử dụng để điều trị ho, khô miệng, đau họng, sốt, bồn chồn và các vấn đề. Liều lượng là 30 đến 45 gam.
Bác sĩ Võ Văn Chi gợi ý một số cách điều trị bệnh với lê như sau: -15 gam lê, phấn hoa cần tây, súp lơ mỗi loại sắc uống. Gạo tẻ, đậu xanh, mỗi thứ 30-60 gam. Cho hết cháo vào nồi.
– Nghiền 60 gam lê để thu được 60 gam nước ép. Râu ngô (ngô), sơn tra luôn 30 gam sắc lấy nước hòa với nước lê.
– Nghiền 100 gam lê để lấy nước cốt. Đắp thuốc, 15 gam râu ngô, hoàng bá, 10 gam rượu mạnh, hòa nước và nước lê cho uống.
– Lê 2 đến 3 quả tươi mỗi ngày. Có thể sử dụng lâu dài.
Trần Ngoan