Theo bác sĩ Nguyễn Hoàng Định thuộc Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM, tiền sử phẫu thuật dường như không thay đổi trang thiết bị ảnh hưởng sâu sắc đến phương pháp phẫu thuật. Cũng giống như công nghệ nội soi, do đó, tất cả các thao tác cần được thực hiện với các dụng cụ dài và bác sĩ chỉ cần quan sát trên màn hình hiển thị thời gian thực. Phương pháp này khác hoàn toàn so với phẫu thuật thông thường được thực hiện thủ công trong không gian ba chiều.
Mổ tim nội soi. Ảnh: HD .
Trong lĩnh vực tim, do giải phẫu phức tạp, phẫu thuật lớn và độ chính xác cao nên nội soi tim được thực hiện tương đối chậm, đảm bảo hiệu quả thấp như mổ hở. Trong hai thập kỷ qua, các bác sĩ phẫu thuật tim trên thế giới đã thực hiện một số ca phẫu thuật tim qua nội soi, với độ an toàn cao và kết quả tốt. Cho đến nay, ngày càng có nhiều trung tâm tim mạch trên thế giới sử dụng công nghệ này.
Theo thống kê của Đức, 65% trường hợp phẫu thuật van hai lá được thực hiện qua ống nội soi, ở Nhật tỷ lệ này là 60%. Tại Hoa Kỳ, nhiều trung tâm thực hiện phẫu thuật van hai lá và van động mạch chủ qua nội soi hoặc phương pháp xâm lấn tối thiểu cao tới 80%. Tỷ lệ này đang tăng lên hàng năm. Phẫu thuật van tim nội soi được kỳ vọng sẽ trở thành phương pháp tiêu chuẩn để điều trị cho bệnh nhân tổn thương van tim trong thời gian sắp tới.
Ở nước ta, miền Bắc có Bệnh viện E Tim mạch Trung ương, Bệnh viện Việt Nam đã thực hiện phẫu thuật tim nội soi từ năm 2014. Bệnh viện Tim Trung ương thuộc Đại học Y dược Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên ở miền Nam thực hiện phẫu thuật nội soi thông thường. Bác sĩ được tu nghiệp ở nước ngoài và thực hiện ca mổ nội soi đầu tiên trong nước dưới sự hướng dẫn của đồng nghiệp người Đức. Cho đến nay, phương pháp phẫu thuật tim nội soi và xâm lấn tối thiểu đã được áp dụng thành công cho gần 100 bệnh nhân. Các bệnh có thể được giải quyết bằng nội soi và các phương pháp xâm lấn tối thiểu bao gồm sửa hoặc thay van hai lá, sửa van ba lá, thay van động mạch chủ, các bệnh tim mạch như thông liên nhĩ, thông liên thất, vòi nhĩ, viêm niêm mạc tim. Vết mổ hở trong phẫu thuật tim là một vết rạch da dọc giữa ngực và xương ức. Trong phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, bác sĩ có thể chỉ cần cắt khe hở giữa xương ức bị hạn chế khoảng 4 đến 5 cm. Trong phẫu thuật nội soi, chỉ cần rạch 2 hoặc 3 lỗ nhỏ trên thành ngực và tiếp cận tim qua một vết rạch nhỏ khoảng 4 đến 5 cm ở thành ngực phải là đủ. Dựa trên những hình ảnh do camera cung cấp, phẫu thuật viên sẽ can thiệp bằng một khí cụ dài phải thật chính xác. Để thực hiện tốt phương pháp này, bác sĩ cần được đào tạo bài bản để thực hiện mổ tim hở thông thường và có kỹ năng nội soi tốt.
Nhiều ca phẫu thuật tim có thể được thực hiện thông qua các phương pháp nội soi và ít xâm lấn hơn, chẳng hạn như sửa chữa hoặc thay thế van hai lá, sửa van ba lá, thay van động mạch chủ, sửa tâm nhĩ co, co và loại bỏ chất nhầy tâm nhĩ trái, Sửa chữa khiếm khuyết hồi lưu tĩnh mạch phổi, sửa một phần ống nhĩ thất …
Mổ tim nội soi chỉ để lại sẹo một phần nhỏ thành ngực. Ảnh: HD.
Mổ nội soi có nhiều ưu điểm. Ưu điểm nổi bật nhất là tính thẩm mỹ cao, được bệnh nhân quan tâm, đặc biệt là phụ nữ trẻ. Những bệnh nhân mặc quần áo vô hình sẽ chỉ có những vết sẹo nhỏ. Bạn nữ có thể mặc đồ bơi mà không bị lộ sẹo. Nó cũng giúp ngăn ngừa các lỗ hở dọc theo xương ức, giữ cho xương ức lành lại, ngăn ngừa nhiễm trùng hoặc làm cho xương ức không ổn định. Công nghệ nội soi còn giúp giảm thời gian thở máy sau mổ, rút ngắn thời gian hồi phục, giảm truyền máu và các chế phẩm của máu, quá trình điều trị diễn ra suôn sẻ hơn, phục hồi nhanh hơn. -Khi mổ tim trong điều kiện bình thường, bệnh nhân cần nghỉ ngơi sinh hoạt, vệ sinh một tháng. Có thể hoạt động trở lại sau 3 tháng và đạt hiệu suất như trước khi hoạt động. Sau khi mổ nội soi, bệnh nhân chỉ cần 2 tuần là có thể sinh hoạt bình thường trở lại, 1 tháng sau là có thể bắt đầu đi làm. -Đặc biệt nội soi tim rất có lợi cho những bệnh nhân phải mổ lại. Đối với những bệnh nhân đã từng thay van hai lá nhân tạo, van bị hỏng nên được thay thế sau khoảng 10 đến 15 năm. Nếu sử dụng phương pháp mổ hở, vết mổ giống như vết mổ trước sẽ rất khó và nguy hiểm vì mô bên dưới đã bị kẹt sau lần mổ đầu tiên. Trong trường hợp này, phẫu thuật nội soi cho phép bác sĩ tiếp cận tim theo đường khác mà không cần phải luồn qua xương ức như trước đây. Do đó, hiệu quả của việc điều trị được nâng caoMore …
BS Hoàng Định chỉ ra rằng không phải trường hợp nào cũng có thể áp dụng phương pháp nội soi hoặc những trường hợp ít xâm lấn. So với các phương pháp thông thường, phẫu thuật tim nội soi có một số nhược điểm, chẳng hạn thời gian sử dụng máy lâu hơn, tim phổi bị bắt, cần phải có máy nội soi và dụng cụ chuyên dụng, bác sĩ phẫu thuật. Và nhóm phẫu thuật cần được đào tạo chuyên sâu. Vì vậy, trước khi quyết định lựa chọn phương pháp nào, các bác sĩ cần cân nhắc, đánh giá kỹ lưỡng để đưa ra chỉ định phù hợp.