Thừa cân béo phì đang là đại dịch toàn cầu, hàng năm người lớn và trẻ em đều tăng trưởng ở mức báo động. Ở Việt Nam, tỷ lệ suy dinh dưỡng tương đối cao, và tỷ lệ béo phì cũng đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là ở trẻ em. Vì trẻ béo phì có nguy cơ trở thành người lớn béo phì nên đây là một vấn đề rất đáng lo ngại. Việc phòng và điều trị cho trẻ thừa cân, béo phì là hết sức cần thiết và cấp bách.
Việc phòng và điều trị cho trẻ bị thừa cân, béo phì là vô cùng cần thiết và cấp bách. Ảnh minh họa: hngn
Thừa cân béo phì là gì?
Thừa cân là hiện tượng cân nặng lớn hơn cân nặng nên tương ứng với chiều cao. Béo phì là chỉ tình trạng tích tụ chất béo bất thường và quá mức trong mô mỡ và các cơ quan khác, từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cách sớm và dễ nhất để đánh giá béo phì là theo dõi các đường cong và dấu hiệu tăng trưởng. Cân nặng / chiều cao, chỉ số khối cơ thể (BMI) theo độ tuổi.
Biểu đồ tăng trưởng: Cân nặng và chiều cao của trẻ dưới 12 tháng được đo hàng tháng, cân nặng và chiều cao của trẻ dưới 24 tháng được đo khi 12 tháng. Trẻ em tăng cân nhanh và vượt quá mức đường huyết cao nhất trên biểu đồ có nguy cơ bị béo phì.
BMI theo chiều cao, cân nặng hoặc độ tuổi (phải được bác sĩ dinh dưỡng điền đầy đủ thông tin): Đối với trẻ trên 2 tuổi, tốt nhất nên sử dụng chỉ số chiều cao và khối cơ thể hoặc BMI để đánh giá tình trạng thừa cân, béo phì. Khi chỉ số cân nặng / chiều cao lớn hơn + 2SD hoặc chỉ số BMI của tuổi lớn hơn 85 thì trẻ bị thừa cân béo phì.
Nguyên nhân của thừa cân béo phì là gì? -Loại trừ nguyên nhân gây bệnh (10%) Béo phì là nguyên nhân chính dẫn đến béo phì vì tiêu hao nhiều năng lượng hơn tiêu hao. -Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do di truyền (những người béo phì có ít leptin hơn (nói chung mọi người nên tiêu thụ ngày càng ít protein, đặc biệt là nếu họ tiêu thụ ít năng lượng hơn) hoặc môi trường; trong môi trường này, năng lượng cao Ăn nhiều chất béo, đồ ngọt, đồ ăn nhanh, ăn nhiều và ít vận động như xem tivi nhiều, máy tính và các sản phẩm công nghệ cao rất dễ bị béo phì.
Hậu quả của béo phì
Người lớn và trẻ em béo phì Các em mắc bệnh giống nhau, nhưng nặng hơn do các bệnh mãn tính và ảnh hưởng nội tiết .. — Trước hết là ảnh hưởng tâm lý xã hội – Trẻ béo phì thường kéo dài ở tuổi dậy thì, chức năng tâm lý xã hội kém, học lực sa sút và thường Sức khỏe kém-2. Các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch-Rối loạn lipid máu, huyết áp cao và kháng insulin thường gặp ở trẻ béo phì và rối loạn lipid máu dường như liên quan đến sự tích tụ mỡ ở bụng. Lipid máu của trẻ em, Rối loạn huyết áp và insulin tiếp tục ở tuổi thiếu niên.
3. Các biến chứng về gan
Các biến chứng về gan của trẻ béo phì đã được báo cáo, đặc biệt là bệnh gan nhiễm mỡ và các triệu chứng của tăng men gan (transaminase huyết thanh). Men gan bất thường cũng có thể liên quan đến sỏi mật, nhưng trường hợp này hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên.
4. Giải phẫu, biến chứng của thoái hóa khớp
Trẻ béo phì có thể bị biến chứng giải phẫu. Bệnh Blount rất nghiêm trọng (là biến dạng của xương chày do tăng sinh quá mức) và rất dễ bị bong gân cổ chân.
5. Các biến chứng khác: ngưng thở khi ngủ và u não giả. Khi ngủ bị nghẹt thở có thể khiến bạn thở chậm, thậm chí trong trường hợp nghiêm trọng có thể gây tử vong. Khối u não giả là một bệnh hiếm gặp liên quan đến tăng áp lực nội sọ và cần được chăm sóc y tế ngay lập tức.
Điều trị béo phì ở trẻ em
Nguyên tắc chung là giảm năng lượng ăn vào và tăng tiêu hao năng lượng. Tuy nhiên, vì trẻ là cơ thể đang phát triển nên việc điều trị cần hết sức chuyên nghiệp, để không ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ do không đủ dinh dưỡng.
Mục tiêu của điều trị béo phì không chỉ là giảm cân. Ngược lại, nếu giảm cân không đúng cách sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. Tùy theo thể trạng và bệnh tật của trẻ mà có những mục tiêu điều trị khác nhau. Các ưu tiên như sau: Mục tiêu quan trọng nhất là thay đổi thói quen ăn uống và thúc đẩy lối sống năng động.
– Mục tiêu tiếp theo là điều trị các biến chứng (nếu có). Mục đích cuối cùng là giảm cân. Tốc độ giảm cân thích hợp là khoảng 500 gram mỗi tháng. Tùy từng trường hợp mà mức độ và mục tiêu giảm cân cũng khác nhau.
BS CKII Nguyễn Thị Hoa, Trưởng khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Quốc tế City